Ðàn
Cò (Nhị)
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||
2.1.2. NHẠC KHÍ DÂY KÉO (CUNG VĨ)
1-Bầu cộng hưởng: là bầu vang, hình hoa muống rỗng lòng, làm bằng gỗ cứng, dài khoảng 13,8cm, 1 đầu bịt da trăn hay da Kỳ đà. Ðường kính vòng ngoài khoảng 6,8cm, chỗ uốn cong của bầu có chu vi khoảng 13,4cm.
3-Trục đàn: dùng để lên dây còn gọi là trục dây, cả hai trục đều cắm xuyên qua đầu cần đàn, nằm theo hướng của bầu cộng hưởng. Trục đàn dài khoảng 14cm hình gỗ tròn (một đầu lớn, một đầu nhỏ) trục được gọt thành những múi hình lục lăng để lên dây, có khi được chạm bằng xương hay xà cừ. 4-Ngựa đàn: giống như phím Ðàn Nguyệt nhưng nhỏ hơn, làm bằng tre hay gỗ dài khoảng 1cm, cao khoảng 0,7cm và dày khoảng 0,4cm, ngựa đàn đặt trên khoảng giữa mặt da. 5-Dây đàn: có 2 dây nên còn gọi là Nhị, trước kia làm bằng sợi tơ xe, ngày nay hay dùng dây nylông nhưng tốt nhất là dây kim khí vì dây kim khí tiếng đàn bảo đảm chuẩn xác tuy nhiên tiếng đàn hơi kém mềm mại nhưng bảo đảm chuẩn xác âm thanh. Ví dụ (222-1) 6-Khuyết đàn (nơ đàn): còn gọi là "cữ đàn" là một sợi tơ xe néo 2 dây đàn vào gần sát cần đàn ở đoạn phía dưới các trục dây. Có người dùng khuy nút áo, xỏ 2 dây đàn vào 2 lỗ khuy rồi buộc khuy vào gần sát cần đàn làm cái khuyết đàn. Tác dụng của bộ phận này là để điều chỉnh độ cao thấp của âm thanh của đàn. Khi đưa khuyết đàn (nơ đàn) xuống làm ngắn quãng dây phát âm (do đó dây đàn có âm thanh cao) Khi đẩy nơ đàn lên, làm dài quãng phát âm (do đó dây đàn có âm thanh trầm).
Vị trí nốt trên dọc (cần đàn): Ðàn Cò (Nhị) cổ truyền lên dây rất linh động, hai dây có khi theo quãng 4 đúng, quãng 5 đúng, quãng 7 thứ nhưng phổ biến nhất là cách lên dây theo quãng 5 đúng. Ví dụ: Bài Bắc: (tính chất vui) hai dây tương ứng với Sol 1- Rê 2â (g1-d2) Bài Nam: (tính chất buồn) hai dây tương ứng với Fa 1- Ðô2ââ (f1-c2) Nhạc Chèo: hai dây tương ứng với Ðô1- Sol 1 (c1-g1) Hiện nay Ðàn Nhị (Cò)
lên dây tương ứng với hai âm Rê1-La1
(d1-a1) thuận lợi cho diễn
tấu, độ căng thích hợp và màu
âm đẹp. ![]()
Ví dụ : (224-2)
Tư thế ngồi: Hai ống chân dựng thẳng, úp hai bàn chân xuống đất, bầu cộng hưởng để ngang, mặt bầu cộng hưởng để lọt xuống giữa hai đùi khoảng hai phần mười, phần còn lại nằm phía trên đùi, lỗ loa bầu cộng hưởng phải để hở: khi cần tiếng nhỏ thì kẹp đùi chân phải vào dây đàn dưới con ngựa. Tư thế ngồi giường ván: Ngồi xếp bàn tròn, bàn chân bên phải để ngữa, ống chân bên trái đè lên giữa bầu cộng hưởng, cần đàn để thẳng, bầu cộng hưởng để ngang, mặt bịt da của đàn để lên bàn chân về phía ngón chân, ngón chân cái để sát dưới con ngựa để điều khiển tiếng: bằng cách ấn nhẹ ngón chân vào con ngựa. Tư thế đứng: bầu cộng hưởng đàn được tì ngang thắt lưng.
Kỹ
thuật tay phải: Kỹ
thuật tay phải chủ yếu là sử dụng
cung vĩ, cung vĩ ở Ðàn Cò (Nhị)
có tầm quan trọng đặc biệt: điều
khiển khéo léo sẽ làm cho tiếng đàn
mềm mại, ngọt ngào hoặc khoẻ mạnh,
chắc chắn. Hướng chuyển động
của cung vĩ là đẩy từ phải sang
trái và kéo từ trái sang phải. Cách ghi : chữ V hoa trên nốt nhạc: cung đẩy (đẩy từ đầu đến gốc cung vĩ) âm thanh không được mạnh bằng kéo cung vĩ, do đó muốn có âm mạnh, không nên dùng cung đẩy. Chữ II trên nốt nhạc: cung kéo (kéo từ gốc đến đầu cung vĩ) Tốc độ kéo cung vĩ nhanh, âm thanh vang lớn hơn kéo, đẩy cung vĩ chậm. Miết mạnh vĩ vào dây âm phát ra khoẻ, chắc hơn miết nhẹ. Cung vĩ có thể chia làm 3 phần: Phần đầu vĩ tạo ra âm thanh bay, nhỏ nhẹ (ở bản nhạc ghi bằng chữ "đầu vĩ") Phần gốc vĩ tạo ra âm thanh mạnh, khoẻ, chắc đôi lúc hơi thô (ở bản nhạc ghi bằng chữ "gốc vĩ"). Ðối với một số khoảng cao trở lên, không nên dùng cung vĩ thể hiện độ mạnh (f) mà chỉ nên mạnh vừa (mf) trở xuống, có những âm chỉ có thể đạt được hơi nhỏ (mp) hoặc nhỏ (p). Ngoài ra do vĩ đặt trong hai dây đàn nên khi chạy nhanh nhiều âm liên tiếp giữa hai dây (từ dây nọ nhảy sang dây kia nhiều lần) sẽ gây khó khăn cho nghệ nhân, người viết nhạc cần chú ý. Các loại kỹ thuật ở Ðàn Cò (Nhị) có 3 loại: Cung vĩ rời, cung vĩ liền , cung vĩ ngắt. Là cách dùng mỗi đường cung vĩ (kéo hay đẩy) để tấu một âm (độ dài âm đó không cố định) vĩ không tách khỏi dây đàn. Cung vĩ rời gồm có hai kiểu: 1a-Cung vĩ rời
lớn: Ví dụ:
(231-1a)
Là cách kéo hay đẩy cả cung vĩ (từ gốc đến ngọn hay từ ngọn đến gốc) để diễn tấu những âm mạnh, đầy đặn, nhiệt tình, rắn rỏi, dứt khoát. Ðánh cung vĩ rời lớn ở Ðàn Cò (Nhị) khó dùng tất cả một hướng cung để tấu các âm liền nhau (tức là khó dùng liên tiếp nhiều cung đẩy cả, hay nhiều cung kéo cả) mà phải phối hợp với cung vĩ kéo, cung vĩ đẩy xen kẽ nhau, vì vĩ bị kẹp giữa hai dây đàn, khó nhấc nhanh như cung vĩ của Ðàn Violon. 1b-Cung vĩ rời
nhỏ: Ví dụ:
(232-1b) Là cách kéo hay đẩy 1/2 hay 1/3 cung vĩ một âm. Ðể diễn tấu những âm bay diễn tả sự linh hoatï, nhẹ nhàng thường dùng phần đầu vĩ và những âm mạnh biểu thị tình cảm khoẻ, chắc, thường dùng gốc vĩ. 2-Cung
vĩ liền: Ví dụ: (233-2)
Là cách dùng mỗi đường cung vĩ kéo hay đẩy để tấu nhiều âm. Sử dụng cung vĩ liền, âm thanh phát ra luyến với nhau, do đó còn gọi là cung luyến. Cung vĩ liền ở Ðàn Cò (Nhị) bị hạn chế bởi cung vĩ ngắn, nên không thể tấu được quá nhiều âm trên một đường kéo hay đẩy. Tuy vậy nếu tấu những âm nhẹ có thể còn được nhiều âm hơn là tấu những âm mạnh. Trong diễn tấu cổ truyền, nghệ nhân ít chú ý đến sự ưu thế của cung vĩ liền, thông thường chỉ sử dụng từ 2 đến 4 âm (ít thấy 6 âm) trong một đường cung vĩ. Ngày nay các nghệ nhân đã sử dụng cung vĩ liền với số âm nhiều hơn trong một cung vĩ. Ký hiệu để ghi cung vĩ liền là dấu luyến đặt trên các nốt nhạc. Khi tấu hết các nốt nhạc đặt trong dấu luyến, đường cung vĩ mới đổi hướng. Trong khi cung vĩ rời biểu hiện những âm thanh khoẻ, dứt khoát, nhẹ nhàng, tình cảm chan chứa, triền miên, có khi bay bổng phơi phới... Trước kia ở Ðàn Cò (Nhị) ít đánh các loại cung vĩ ngắt. Gần đây các loại cung vĩ ngắt có nhiều kết quả tốt. Ðánh những âm ngắt, ngắn với nhiều kiểu khác nhau như: 3a-Cung vĩ ngắt rời:
Ví dụ (235-3a)
Là lối đánh ngắt từng âm, mỗi âm do một đường cung vĩ hay kéo ngắn gọn, vĩ không nhấc khỏi dây đàn. Có thể dùng phần đầu, phần giữa hay phần cuối cùng vĩ để đánh ngắt rời, nhưng thường là dùng phần đầu để đánh hơn. Âm thanh cung vĩ ngắt rời phát ra dứt khoát, gọn, nhanh. Thực tế sắc thái của những âm thanh này lại dịu, nhẹ hơn là mạnh mẽ, thường dùng trong nhịp độ nhanh vừa trở lên. Ký hiệu dấu chỉ cung vĩ ngắt rời là một chấm nhỏ ghi trên hay dưới nốt nhạc. 3b-Cung
vĩ ngắt liền: Ví dụ (236-3b)
Ðánh ngắt âm thanh nhưng các âm tiến hành trong một đường cung vĩ. Mỗi âm chiếm một đoạn ngắn của cung vĩ, thường là từ phần đầu đến giữa. Âm thanh phát ra ngắn gọn nhưng không rời nhau. Kỹ thuật này thường dùng cho những âm có độ dài nhỏ trong nhịp độ từ vừa đến rất nhanh. Diễn tả được tâm trạng lâng lâng nhưng tinh tế, thoải mái nhưng không phóng túng. Ký hiệu :cung vĩ ngắt liền được ghi bằng dấu chấm nhỏ đặt trên hay dưới nốt nhạc kèm theo dấu luyến bao chùm. 3c-Cung
vĩ nhấn liền: Ví dụ (237-3c) Ðánh như cung vĩ ngắt liền, các âm tiến hành trong một đường cung vĩ như đánh miết vĩ, nhấn từng âm và các âm vẫn luyến với nhau. Biểu hiện trạng thái đấu tranh gay gắt, có thể diễn tả sự say đắm, nặng nề. Nhịp độ bản nhạc thường là vừa và chậm. Ký hiệu cung nhấn liền: ta dùng những gạch ngang đặt trên nốt nhạc và gạch đó nằm trong một dấu luyến. 3d-Cung
vĩ nẩy rời: Ví dụ (238-3d) Ðánh ngắt từng âm, mỗi âm một đường cung vĩ (như đánh cung vĩ ngắt rời) nhưng sau mỗi âm lại nhấc vĩ một lần (ở nhịp độ nhanh, cung vĩ nhảy trên dây đàn). Ký hiệu: đặt dầu đinh nhỏ trên hay dưới các nốt nhạc để chỉ âm nẩy rời. 3e-Cung
vĩ nẩy liền:
Ví dụ (239-3e)
Ký hiệu là các dấu đinh nhỏ kèm dấu luyến đặt trên hay dưới các nốt nhạc. Hiệu qủa của các loại cung vĩ nẩy này làm cho ta thấy những âm thanh vừa gọn, vừa nẩy thể hiện được không khí vui tươi, sáng sủa, nhẹ nhàng. 3f-Cung
vĩ rung: Ví dụ (240-3f) Cũng là một thứ cung vĩ rời nhỏ tiến hành với tốc độ rất nhanh trên một âm nào đó: dùng cổ tay điều khiển cung vĩ (thường là đầu cung) kéo, đẩy liên tiếp thật nhanh để phát ra nhiều lần một âm nào đó. Cung vĩ rung nghe như tiếng vê ở các đàn gảy dây. Thực hiện cung vĩ rung ở các nốt nhạc kéo dài hoặc ở các nốt nhạc ngân ngắn, ở các nốt nhạc khẩn trương, cao trào hay làm nền trong hoà tấu đều được vì nó diễn tả nhiều tình cảm, nhiều hình tượng khác nhau. Ký hiệu: đặt 3 gạch chéo ở đuôi nốt, nếu là nốt không có đuôi thì đặt 3 gạch chéo ở dưới. Kỹ thuật tay trái: Trứơc kia nghệ nhân thường dùng lòng đốt ngón tay trái để bấm vào dây đàn, nay hầu hết các nghệ nhân đều bấm bằng đầu ngón tay. Bấm bằng đầu ngón tay, âm thanh chuẩn xác hơn, ngón bấm nhanh nhẹn, linh hoạt hơn, nhất là khi bấm những cung phím trong các thế tay phía dưới. Kỹ thuật tay trái bao gồm các thế tay và các ngón bấm dây, bật dây. Thế tay:
các nghệ nhân chuyển thế tay bằng cách thay đổi cữ tay theo một
qui tắc riêng, ít chạy các âm cao và chưa tận dụng triệt để
khả năng các ngón tay. Ngày nay ở Ðàn Cò có thể dùng đến 9
thế tay. Ngoài ra trong độc tấu, đôi khi sử dụng đến thế 10,
thế 11... những thế tay này chỉ nên đánh ở dây cao. Các ngón bấm: ngoài mục đích bấm độ cao của âm thanh, các kỹ thuật tay trái còn góp phần quan trọng trong việc thể hiện tính chất của âm thanh. Ðiều này gắn liền ở mức độ nhiều hay ít làm cho nét nhạc mang tính Dân tộc đậm đà hay mờ nhạt. Trong bản nhạc, nếu ta không chú ý ghi đầy đủ các ký hiệu cho kỹ thuật tay trái, tức là tay trái chỉ bấm những nốt nhạc đơn thuần, lập tức những giai điệu sẽ giảm đi rất nhiều tính chất phong phú của Ðàn Cò (Nhị) làm ảnh hưởng không ít đến tính chất Dân tộc trong nội dung biểu hiện. Các ngón bấm chủ yếu của Ðàn Cò (Nhị):
Ngón rung: làm tiếng đàn ngân vang mà không khô, cứng. Ngón rung là ngón tay bấm, nhấn nhẹ liên tiếp ở một âm nào đó khiến âm thanh phát ra như làn sóng nhỏ. Ngón rung sử dụng ở hầu hết các âm có độ ngân dài. Người ta có thể rung cả ở dây buông bằng cách dùng ngón tay cái nhấn nhẹ liên tiếp vào cái khuyết (cái cữ của dây đàn), cần chú ý không để cái khuyết tụt xuống sẽ ảnh hưởng đến độ cao của dây đàn. Ví dụ :(241-19) Ngón vuốt: là cách di ngón trên dây đàn từ dưới lên trên hay từ trên xuống dưới. Âm vuốt làm tiếng đàn thêm mềm mại, uyển chuyển gần giống giọng hát, giọng nói dân tộc. Có hai lối vuốt: a-Vuốt để chuyển thế tay, lối vuốt này nên tiến hành nhanh và chỉ nên chạm ngón rất nhẹ trên dây, hết sức tránh âm thanh nghe phát ra nghe nhõng nhẽo. Vuốt để chuyển thế tay không cần ghi ký hiệu mà chỉ cần ghi thế tay và ngón bấm. b-Vuốt làm âm thanh dịu ngọt,
mềm mại, ký hiệu ngón vuốt như gạch nối giữa các nốt nhạc,
đặt trước hoặc sau một nốt nhạc tùy theo từng trường hợp.
Ví dụ :(247-
) Ngón láy rền: (còn gọi là đổ hột): đây là kiểu láy nhưng láy nhanh hơn để âm chính và âm cao liền bậc (hay cách bậc) phát ra như làn sóng rền. Âm chính cũng có thể là từ âm của dây buông. Ký hiệu: chữ "trille" trên nốt nhạc viết tắt là "tr " đi liền với đoạn sóng ngắn. Ngón láy rền có giá trị bằng độ dài của nốt nhạc (tr ). Ví
dụ :(249-24) Ngón
vê:
Ví dụ :(248-25) Ví dụ :(252-27) Ví dụ :(254-17)
7-Những
nhạc khí tương tự ở Ðông Nam Á và các nước:
|