Cồng,
Chiêng
4.2.
NHẠC KHÍ TỰ THÂN VANG
4.2.1.NHẠC KHÍ TỰ THÂN VANG GÕ
1-Giới
thiệu sơ lược:

ồng, Chiêng là nhạc khí tự thân
vang, loại nhạc khí có định âm
thuộc Chi gõ và Chi đấm của Dân
tộc Việt và nhiều Dân tộc Việt
Nam. Cồng, Chiêng có mặt trong âm nhạc
của hầu hết các Dân tộc Việt
Nam, Cồng, Chiêng xuất hiện trong nghệ
thuật dân gian từ những thời xa xưa
nhất và vẫn tiếp tục cho đến
ngày nay. Cồng có khả năng đã
xuất hiện trước hoặc cùng thời
với Trống Ðồng vì trong các hoa
văn Trống Ðồng đã có khắc
họa hình một dàn Cồng, Chiêng.
"Cồng" để chỉ loại có
núm, và "Chiêng" để chỉ
loại không núm, tuy nhiên trong dân gian
không có sự phân biệt rõ ràng,
đồng bào cho rằng Cồng (có núm)
có tuổi đời xưa hơn là Chiêng
(không có núm) vì nếu so sánh Cồng
với mặt Trống Ðồng thì Trống
Ðồng có hình dáng như một cái
Cồng lớn, với giả thiết Cồng
ra đời trước Chiêng mặt dù
về mặt kỹ thuật thì đúc Cồng
khó hơn đúc Chiêng. Nghệ thuật
Cồng, Chiêng ở Việt Nam đã gắn
chặt với nền Văn hóa cổ truyền
của Dân tộc (lễ nghi, phong tục và
tín ngưỡng) và mỗi dân tộc
đều sử dụng Cồng, Chiêng theo
những hình thức khác nhau về loại
hình và biên chế.
|
2-Xếp
loại:

ồng,
Chiêng là nhạc khí tự thân vang gõ phổ biến tại Việt Nam, đồng
thời ở một số nước khác ở Châu Á cũng có.
3-Hình
thức cấu tạo:
 
ồng,
Chiêng làm bằng đồng thau hoặc hợp kim đồng thiếc, với tỉ lệ
của các hợp kim rất khác nhau tùy theo nơi đúc, hình tròn ở
giữa hơi phồng lên, chung quanh có bờ gọi là thành. Cồng luôn
luôn có núm ở giữa, Chiêng có hai loại: Chiêng có núm ở
giữa gọi là Chiêng núm và Chiêng không có núm gọi là Chiêng
bằng. Cồng, Chiêng có nhiều cỡ to nhỏ, dày mỏng khác nhau,
có loại đường kính rộng 90cm, phải treo lên giá đỡ, khi đánh
lên tiếng ngân rền như sấm, có loại nhỏ đường kính chỉ 15cm,
tiếng cao, trong trẻo.
 
4-Màu
âm:
ồng,
Chiêng huyền bí, âm u, mang đậm sắc núi rừng, âm thanh to, vang
xa.
Cồng : Ví
dụ: (446-002am) dùi mềm-đánh hồi

Chiêng: Ví
dụ: (447-5a) dùi cứng-đánh hồi
5-Kỹ
thuật diễn tấu:
 
6- Vị
trí Cồng, Chiêng trong các Dàn nhạc:
 àn
Cồng của người Mường từ 5 đến 20 cái do mỗi người cầm một cái.
Sự kết hợp giữa Trống Cái và Chiêng Cồng là công thức cổ
xưa nhất có ở nhiều Dân tộc và Dàn nhạc Chiêng, Cồng. Ở Tây
Nguyên, nơi mà Chiêng, Cồng phát huy tính âm nhạc cao nhất, nếu
ở các Dân tộc Việt, Thái, Tày, Khơ Mú, Cồng, Chiêng: mới chỉ
được sử dụng như các nhạc cụ nhịp điệu, thì ở Dân tộc Mường
và các Dân tộc Tây nguyên Cồng, Chiêng: được tổ chức thành
dàn nhạc, diễn tấu những bản nhạc đa âm (multiphony) với các
hình thức chủ điệu (homophony), đa điệu (heterophony), hòa điệu
(harmony) khác nhau. Ðây chính là giá trị quý báu của nghệ thuật
âm nhạc Cồng, Chiêng của các Dân tộc Việt Nam (Tô Ngọc Thanh-
Giới thiệu một số Nhạc cụ Dân tộc thiểu số Việt Nam - Nhà
xuất bản Văn hóa Dân tộc TP.HCM- 1995). Nghệ thuật Cồng, Chiêng
rất đa dạng, phong phú về mặt tiết tấu mà còn ở giai điệu,
hòa âm và nghệ thuật trình diễn kết hợp với múa dân gian. Cồng,
Chiêng do một nhóm người đồng diễn, mỗi người chỉ sử dụng một
Cồng hoặc một Chiêng, bộ Cồng, Chiêng nầy thường diễn tấu độc
lập ít khi có các nhạc khí khác phụ họa hoặc nếu có chỉ với
một hai trống da hoặc bộ lục lạc cũng bằng đồng.

7-Những
nhạc khí tương tự ở Ðông Nam Á và các nước:
ăn
hóa Cồng, Chiêng còn tồn tại chủ yếu ở các nước vùng Ðông
Nam Á, trong lục địa cũng như ở các hải đảo, theo GSTS Trần văn
Khê tương tự Cồng, Chiêng ở các nước có: Bộ Không Wong
Yai và Không Wong Lơk ở Thái Lan,
Dàn Ky Wang ở Myanmar, Dàn Chanang
ở Mã Lai, Dàn Kulintang (Dàn Cồng
gồm 8 chiếc bằng đồng hình ô trầu đậy nắp có núm ở giữa, đặt
trên giá hình chữ nhật bằng gỗ, nghệ nhân dùng 2 dùi mà gõ),
một cặp Cồng lớn treo đứng Agung ở Philippine,
cặp Agung gồm có 2 cồng Penanggisa-an dùng để đánh
nhịp chính và Pumalsan để đối với Cồng lớn Penangggisa-an.
Không Wong ở Lào, Không
Thom và Không tuôch ở Campuchia.
Ở quần đảo Java của Indonesia có
Cồng Gong Ageng, Chiêng
lớn TamTam của Hsi
Yu (giữa Burma và Tibet).
|